Giá tiêu hôm nay 25/10: Đồng loạt giảm, mất mốc 67.500 đồng/kg
Giá tiêu trong nước
Theo khảo sát, giá tiêu tại thị trường trong nước được điều chỉnh giảm đồng loạt 500 đồng/kg, xuống khoảng 67.000 - 70.500 đồng/kg.
Cụ thể, nông dân tại tỉnh Gia Lai đang thu mua hồ tiêu với mức giá thấp nhất là 67.000 đồng/kg.
Tại Đồng Nai, Đắk Lắk và Đắk Nông, hồ tiêu đang được thu mua với cùng mức giá là 68.500 đồng/kg.
Tương tự, giá tiêu hôm nay tại Bình Phước và Bà Rịa - Vũng Tàu lần lượt neo tại mức 70.000 đồng/kg và 70.500 đồng/kg.
Tỉnh/huyện (khu vực khảo sát) |
Giá thu mua (Đơn vị: đồng/kg) |
Thay đổi so với hôm qua (Đơn vị: đồng/kg) |
Đắk Lắk |
68.500 |
-500 |
Gia Lai |
67.000 |
-500 |
Đắk Nông |
68.500 |
-500 |
Bà Rịa - Vũng Tàu |
70.500 |
-500 |
Bình Phước |
70.000 |
-500 |
Đồng Nai |
68.500 |
-500 |
Giá tiêu thế giới
Theo cập nhật từ Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC) vào ngày 24/10 (theo giờ địa phương), giá tiêu đen Lampung (Indonesia) tăng 0,46% so với ngày 23/10.
Song song đó, giá tiêu đen Brazil ASTA 570 và tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA vẫn duy trì ổn định.
Tên loại |
Bảng giá tiêu đen thế giới (ĐVT: USD/tấn) |
||
Ngày 23/10 |
Ngày 24/10 |
% thay đổi |
|
Tiêu đen Lampung (Indonesia) |
4.086 |
4.105 |
0,46 |
Tiêu đen Brazil ASTA 570 |
3.100 |
3.100 |
0 |
Tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA |
4.900 |
4.900 |
0 |
Cùng thời điểm khảo sát, giá tiêu trắng Muntok tăng 0,47% so với phiên hôm trước, trong khi giá tiêu trắng Malaysia ASTA không có điều chỉnh.
Tên loại |
Bảng giá tiêu trắng thế giới (ĐVT: USD/tấn) |
||
Ngày 23/10 |
Ngày 24/10 |
% thay đổi |
|
Tiêu trắng Muntok |
6.152 |
6.181 |
0,47 |
Tiêu trắng Malaysia ASTA |
7.300 |
7.300 |
0 |
Theo trang cafef.vn, Việt Nam là quốc gia giữ vị thế số 1 thế giới về sản xuất và xuất khẩu hồ tiêu, chiếm 40% sản lượng và 60% thị phần hồ tiêu toàn cầu.
Theo thống kê sơ bộ của Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam (VPA), lũy kế 9 tháng đầu năm 2023, Việt Nam xuất khẩu được 204.385 tấn hồ tiêu các loại. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 678,1 triệu USD.
So với cùng kỳ năm 2022 lượng xuất khẩu tăng 15,3%, tương đương 27.164 tấn, tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu giảm 13,4%, tương đương giảm 104,5 triệu USD.
Trong đó, đứng đầu là thị trường Trung Quốc với 55.985 tấn, chiếm 27,4% thị phần và tăng 373,6% so cùng kỳ.